Linh Mục
Hoành Sơn, SJ, Việt Nam
Prepared for internet by Vietnamese Missionaries in Taiwan
Tư cách và đạo đức bản thân
Những gì nói ở chương trước cho
thấy rõ sự song hành của các tiến trình tâm lý, luân lý và thiêng liêng. Trưởng
thành (maturité) là một thực tại ba mặt, ba mặt tuy phân biệt mà vẫn bắt rễ
sang nhau, đến nỗi dù nói một, hầu như cũng là nói chung cho ba đấy. Và cũng
thế, tiến một mặt là tiến mọi mặt, với sai số thường không đáng kể.
Trong ba địa hạt nói trên, nền
tảng nhất hẳn là tâm lý. Dù có lớn lên về đạo đức, thiêng liêng, sức lớn ấy
cũng là của tâm hồn. Mà tâm hồn thì lớn lên từ chính nền tảng năng động của
mình: hệ tâm lý. Vậy nếu không có trưởng thành tâm lý, do đó không có hội nhất
các chức năng và sức mạnh nội tâm, thì không thể có một đạo đức vững, đạo đức
thực. Cho nên để nên thánh, việc tiên quyết là phải đổ cho chắc chân móng ấy
đã, nghĩa là rèn luyện tư cách và nhân cách.
Tư cách (caractère) nói lên ở đây
thái độ và cách ứng xử tương đối ổn định của một người, do chính người ấy, bằng
ý chí và thói quen, đã tạo nên. Một con người mà khuynh hướng và cơ năng tâm lý
đã thống nhất hết để làm nên con người như thế, chứ không thế khác; con người
ấy là một nhân cách (personnalité). Nhân cách là bản vị (bản vị tâm lý, chứ
không phải hữu thể học) mà tư cách làm nên, tư cách tỏ lộ ra. Con người có tư
cách là một pháo đài vững chắc, đáng kính nể và kiêng nể.
Con người ấy đã tự mình làm nên
mình, con người Chính mình, độc đáo, không phải sản phẩm hàng loạt, cũng không
phải "bầy đàn" do ngoại cảnh hun đúc, do đám đông lôi theo, một con
số giữa đám đông ấy.
Người kiểu "bầy đàn"
chẳng xứng là người, mà là cừu thôi. Giáo dục xưa nhấn mạnh quá vào tùng phục
(bằng thứ tùng phục mù quáng) và đồng bộ, nên tự nó không làm nên những nhân
cách, những vị tướng, những kẻ đi đầu.
Một cơ quân dĩ nhiên không cần
nhiều tướng lãnh. Nhưng trên mặt trận bên trong, chỉ có mình là tướng của riêng
mình. Nên ngoài thứ đạo đức bản thân (personnelle), sẽ không vững một đạo đức.
Cả cha Rahner cũng khuyến khích thứ đạo đức riêng mình này. Trong một nhóm thụ
giáo, chỉ cần một kỷ luật chung vừa đủ, để mỗi thành viên còn chỗ tự tạo một kỷ
luật riêng với sự góp ý của người hướng dẫn. Mỗi thiếu niên cũng phải tập suy
nghĩ tự mình và đánh giá tự mình dựa trên những nguyên tắc tổng quát ai nấy đều
chấp nhận.
Nói như thế không có ý khuyến
khích sự lập dị đâu. Lập dị (singulier) không đồng nghĩa với độc đáo
(original), mà còn nghịch nghĩa nữa. Vì độc đáo nhắm cái chính mình (soi-même),
còn lập dị nhắm cái khác người (Muốn gì khác với thông thường, mới dễ đi đến
khám phá. Nhưng nếu muốn khác người chỉ vì mặc cảm hay tự kiêu, thì đó là điều
xấu và có hại cho tương giao). Hơn thế, độc đáo nói lên chiều sâu của con
người, trong khi lập dị chỉ cốt bề mặt thôi.
Nói như thế cũng không khuyến
khích sự khép kín, cách ly. Vì đạo đức bản thân là của con người trưởng thành,
mà con người chỉ trưởng thành khi mở ra, và thoái hóa khi đóng lại. Mở ra không
phải là thành y hệt xung quanh. Ðể mở ra phải là chính mình đã:
Quân
tử hòa nhi bất đồng,
Tiểu nhân đồng nhi bất hòa.
Ðồng (sao nguyên bản của tập thể)
nói lên thái độ bầy đàn. Người quân tử, tuy uốn nắn mình để hòa hợp với người
("do thái với Do Thái, hy lạp với Hy Lạp"), nhưng vẫn nguyên là chính
mình ở nền tảng. Không dễ gì tách khỏi tập thể và cưỡng lại sức ép dư luận. Thế
nhưng để đạo đức chắc, đạo đức tự mình, chúng ta cần thứ can đảm ấy, can đảm để
Bất đồng, và kế đó, can đảm để Hòa với.
Con người thật đạo đức cũng là
con người có tư cách, mà có tư cách lại là người hội nhất (intégré) rồi. Hội
nhất không phải vì các năng lượng bị cuốn theo cơn lốc của một loại dục vọng
duy nhất, của một xung động bệnh hoạn nào đó thôi. Mà hội nhất vì các năng
lượng và chức năng cùng hội hợp trong một hướng đi đã chọn, mà động cơ là một
giá trị cao quý, mà đích nhắm là ích lợi thiêng liêng cho người và cho mình.
Như thế, hội nhất tâm lý chỉ thành vững chắc nếu đi cùng chiều với một bản năng
khác, và đó là sự hướng thiện. Vâng, một nhân cách hoàn bị phải bao trọn hai
mặt: tâm lý và luân lý. Thế mà sống đạo đức thì phải lội ngược dòng, nên đòi
một ý chí gang thép, một đức nhẫn bàn thạch cho một rèn luyện lâu dài và cam
go.
Ðể tạo nên nhân cách, tạo chính
mình, không thể không biết mình từ nền tảng.
Biết mình ở thành phần nền tảng
(Về
các yếu tố thành phần và tám khí chất, tôi dựa theo R. Le Senne, Traité de
caractérologie, Paris, 1960).
Ðể xây dựng mình cho vững, thì
phải xây dựng từ nền tảng. Nền tảng ấy có tính tâm lý, thậm chí tâm sinh lý.
Thuở xưa bên Tây, người ta liên hệ khí chất (tempérament) với hoạt động của một
số bộ phận cơ thể. Theo danh y Hippocrate, có bốn khí chất: máu, mật, mật đen
và bạch huyết (flegme). Tâm lý học của thế kỷ XIX cũng phân loại gần y như thế.
Và đó là: khí chất máu (sanguin), khí chất mật (bilieux, hay ưu tư, cáu kỉnh),
khí chất bạch huyết (lymphatique) và khí chất thần kinh (nerveux, dễ kích
thích).
Sau đó ít lâu, người ta bắt đầu
đi tìm những nền tảng thuần tâm lý học, những yếu tố mà tổ hợp (combinaison)
khác nhau hẳn sinh ra những khí chất khác nhau. Những yếu tố này, chính yếu có
ba: Cảm (émotivité), Ðộng (activité) và Âm hưởng (retentissement). Mỗi yếu tố
lại được phân đôi: hướng cảm và vô cảm, hướng động (ưa hành động) và bất động
(hay hướng tĩnh), âm hưởng nổi và âm hưởng chìm.
Thật ra, người ta cảm (xúc) với
độ nhạy và cường độ khác nhau, chứ chẳng ai vô cảm hoàn toàn. Về động cũng thế,
có người hiếu động và có người ưa tĩnh, nhưng chẳng ai là không hành động nhiều
ít, hướng động với nhiều mức độ khác nhau. Lại đối với kích động từ ngoài,
tiếng vang vọng bên trong, ở người này thì thoáng qua, ở người kia sâu đậm, và
giữa hai cực Nổi và cực Trầm ấy, có biết bao trung gian, khiến cho lắm kẻ Nổi
hơn Trầm, lắm người Trầm hơn Nổi, chứ chẳng ai chỉ một trong hai. Vì thế, khi
nói ai hướng cảm, hướng động và trầm, thì điều ấy chỉ có nghĩa: Cảm và Ðộng hơn
mức bình thường, cũng như nghiêng về Trầm hơn là Nổi, có thế thôi.
Ðể gọn tiện, xin dùng những ký
hiệu sau:
C: hướng
Cảm
c: vô Cảm
Ð: hướng Ðộng
đ: hướng Tĩnh
T: âm hưởng Trầm
N: âm hưởng Nổi
CẢM (émotivité). Một biến cố, qua
nhận thức, có thể chấn động guồng máy tâm linh (psychique), giải thoát một số
năng lượng để làm thành: hoặc một căng động (tendance), hoặc một cảm xúc
(émotion), hoặc cả hai. Nếu sức đổ hết vào hành động, thì cảm xúc không còn gì
nuôi dưỡng, vừa chớm đã tàn ngay, đến nỗi không kịp ý thức. Ngược lại, nếu
không thoát ra được bằng hành động, sức phản chấn sẽ dội đi dội lại bên trong,
khả dĩ gây tổn thương cho tâm hệ (psukhê) hay tạng phủ. Ðối với người nhạy cảm
nhưng âm hưởng nổi, thì cảm xúc có thể sục sôi, nhưng mau tàn. Chẳng những độ
cảm xúc tăng theo độ hướng cảm của cá nhân, nó còn tùy thuộc vào điểm quan tâm
(centre d'intérêt) của họ nữa. Nếu kích thích trung bình, mức quan tâm không
lớn lắm, mà xúc động đã lớn rồi, thì đây là con người hướng cảm (émotif). Con
người âm hưởng nổi thì mau cảm (nhạy cảm), nhưng không bền và sâu. Còn con
người âm hưởng trầm thì cảm sâu nhưng không cảm ngay, nên bình tĩnh bề ngoài
được.
ÐỘNG (activité). Nếu kẻ hướng cảm
hướng về bên trong, hướng chủ quan, thì người hướng động lại hướng về bên
ngoài, hướng đối tượng. Về một đối tượng mà hắn phải làm thành.
Nếu hướng cảm bị chi phối bởi đối
tượng, thì hướng động lại thích khống chế đối tượng: họ chủ động, chứ không thụ
động. Nên dấu hiệu của hướng động là càng gặp trở lực càng hăng vượt thắng, chứ
không thối chí, chùn chân. Do bản chất, họ là cây cung giương sẵn, hễ có dịp là
hành động. Vâng, cái đến từ ngoài chỉ là cơ hội thôi, chứ không phải nguyên
nhân. Trái lại, kẻ hướng tĩnh cứ gặp cản trở là buông hành động liền. Họ thiếu
ý chí và yếm thế, trong khi người hướng động thì giàu nghị lực và lạc quan.
Ở đây, cần phân biệt hành động do
khí chất với hành động do các nguyên nhân khác. Có người vì cảm xúc mạnh quá mà
nổ ra hành động. Lại có người hiếu sắc, ham ăn, nên "miệng đói thì đầu gối
phải bò", thế thôi.
Nếu đã hướng cảm, lại hướng động
luôn, thì anh sẽ cuốn đi với hành động. Anh là Con người hành động (homme
d'action), và tham vọng anh thật lớn. Ngược lại, nếu hướng cảm, còn hướng tĩnh
nữa, thì chị sẽ hướng nội (introversif, theo ý nghĩa tâm lý, chứ không phải
thiêng liêng). Nhất là khi âm hưởng lại trầm.
Kẻ hướng động nhắm đích tới, chứ
không kẹt ở đường đi. Họ luôn thay đổi để ứng phó, để vượt qua suối đèo. Họ
kiên định (persévérant), chứ không cố chấp (entêté). Kẻ cố chấp không buông
hành động, nếu không vì tự ái, thì cũng vì không thể đổi thay. Không thể đổi
thay ư? Thế là họ thụ động, chứ không chủ động. Kẻ hướng tĩnh, ngậm thêm hướng
cảm và âm hưởng nổi, thì dễ đổi, làm hay bỏ tùy hứng. Họ buồn vu vơ và có thái
độ giả tạo.
ÂM HƯỞNG (retentissement). Một
biến cố bên ngoài gây một tiếng vang bên trong qua trung gian của biểu tượng
(représentation). Âm hưởng ấy, nơi người này mau đến mau qua, nơi người kia sâu
dai, chậm chạp. Do đó, kẻ thì phản ứng tức khắc, người lại đắn đo hay thấm thía
từ từ.
Những vang vọng nếu kéo dài sẽ
chìm vào vô thức, và lần tới sẽ đeo thêm trọng lương vào ấn tượng mới, khiến
cho kích động bên ngoài rút cuộc chỉ châm ngòi cho thùng thuốc giấu sẵn bên
trong.
Theo Otto Gross giải thích, một
tế bào nào đó làm công tác phản xạ đầu khi sản sinh một biểu tượng, và qua biểu
tượng ấy gây một sức căng hóa học, do đó một đổ ập năng lượng mang tính hóa
học. Ðó là chức năng sơ nhất (primaire) của não.
Chức năng nhị tiếp (secondaire)
sẽ là bồi bổ hóa học cho tế bào đã bị tiêu hao do công tác sơ nhất. Tùy sự bồi
bổ này mất ít hay nhiều thời gian, mà vận động của tế bào sẽ liên tục hay giật
cục do những quãng đợi chờ. Trong trường hợp sau (giật cục), chỉ có những phản
xạ kiểu sơ nhất nối đuôi nhau, nên dù mạnh cũng không có chiều sâu, không dai
bền. Bằng như sức bồi bổ dồi dào khiến không quãng ngắt, thì sự vang vọng kéo
dài sẽ đạt tới độ sâu nội tâm để tập hợp thêm biểu tượng, và qua đó, sức mạnh.
Ðiều Otto Gross nói có thể khá
đúng về mặt hóa học. Nhưng hoạt động tâm lý đâu phải chỉ có mặt sinh hóa
(biochimique). Nó còn mặt tâm lý với tác nhân tâm lý, quy luật tâm lý nữa chứ.
Ấy là chưa kể ảnh hưởng của văn hóa, giáo dục cũng như tác động của ý chí tự
do.
Về mặt tâm lý, khi một biến cố
diễn ra, trong ta xuất hiện biểu tượng về biến cố ấy. Biểu tượng này gây một
phản chấn. Phản chấn có thể vọt ngay thành hành động hay xúc cảm, và đó là âm
hưởng nổi. Phản chấn có thể âm ỷ ở chiều sâu � đôi khi đạt tới vô thức �, ở đó
nó tập hợp quanh mình một hệ thống những ý tưởng và ảnh tượng, cùng với từng
chùm sóng năng lượng bám đeo theo. Cái sức mạnh này, tuy đến chậm, nhưng đến
như một "légion" (đoàn quân). Nếu nó nổ thành hành động, thì gió bão
ùn ùn không ngớt. Bằng như không thoát ra được bằng hành động, nó sẽ quật lại
ông chủ bằng một sói buốt âm ỷ mang cảm tính (affective).
Như thế, người âm hưởng nổi (chức
năng sơ nhất) sống với hiện tại và đổi thay theo bên ngoài. Còn người âm hưởng
chìm (trầm) sống mạnh từ quá khứ, nên trung thành và kiên định. Có điều, nặng về
quá khứ, họ dễ sính quá khứ và trở thành bảo thủ trừ phi cố hướng về tương lai.
Cát thì viết dễ và viết rõ, nhưng lại mau mờ. Ðá thì khó tạc, nhưng điều đã tạc
hẳn "trơ gan cùng tuế nguyệt".
Về mặt đức hạnh, con người ứng
Nổi dễ đổi thay và nhẹ dạ, vì sống với hiện tại nên khó chống cám dỗ, lại vô kỷ
luật và ham ăn chơi, tìm sướng khoái. Trái lại, kẻ ứng Trầm dễ đi vào khổ hạnh
và hy sinh, nội tâm kết thành khối vững, tư tưởng có hệ thống và tính thích
ngăn nắp. Nếu lý trí phát triển, họ dễ đánh giá khách quan. Có điều họ khó quên
hận thù cũng như khó nguôi đau khổ. Ðàng khác, không dễ gì họ bỏ được thói quen
và thành kiến.
Nếu đã trầm, lại hướng cảm và
hướng tĩnh nữa, người ta sẽ thành hướng nội và thích hợp với đời sống suy
chiêm, đan tu.
NHỮNG YẾU TỐ KHÁC. Ngoài ba yếu
tố chính yếu trên, các nhà tâm lý học nêu thêm mấy yếu tố phụ nữa, và đó là: độ
lớn ý thức trường, óc tổng hợp hay phân tích, sự hướng thân hay hướng tha,
khuynh hướng chủ chốt, và cấu trúc tâm lý.
a) độ
lớn ý thức trường
Ý thức có thể tập trung vào một
điểm nhỏ: trí hẹp; hay tản mát giữa nhiều ấn tượng khác nhau: trí rộng. Ðằng
thì có sức, đằng lại có không gian; đằng thì nhìn gần, đằng lại tập trung không
đủ. Dĩ nhiên trong trường hợp khẩn bách, thì ai mà chả tập trung. Chỉ lúc bình
thường, cách nhìn mới dễ thấy khác nhau do khác ở tầm nhìn. Người ý thức hẹp,
như con ngựa che mắt chỉ nhìn thấy phía trước, nên cứng nhắc trong suy, cảm,
động, thành con người thành kiến, quá nguyên tắc. Kẻ rộng ý thức trường, ngược
lại, cứ lang thang từ biểu tượng này sang biểu tượng kia, mà chẳng biểu tượng
nào làm con chủ bài nổi. Thiếu tập trung, thì yếu quyết định. Bù lại, họ khéo
luồn lách vì thấy nhiều lối đi mà chẳng vội chọn lối nào. Vì không ngả hẳn
hướng nào, họ cũng chẳng va chạm ai, nhờ đó đôi khi được bầu làm bề trên hay
trọng tài. Có điều, đây là thứ bề trên để hòa giải, không phải để hành động.
Người ý thức rộng càng khó quyết định hơn nữa, nếu cùng với ý thức rộng, họ còn
âm hưởng trầm và hướng tĩnh. Trái lại, nếu ý thức hẹp đi đôi với chức năng nổi,
người ta dễ thành con mồi cho hưng cảm (manie) và định kiến (idée fixe).
b) Óc
phân tích hay tổng hợp
Sự thông minh tăng trọng cho tư
cách. Với thông minh, người ta thấy rõ, thấy đúng, thấy chính xác, bao quát và
sâu hơn, nhờ đó bội tăng khả năng và sức mạnh.
Óc thông minh có thể nghiêng về
tổng hợp hay phân tích. Óc phân tích nhìn ra cái Khác với, nên xoáy vào chi
tiết, những thành phần tế vi. Còn óc tổng hợp, bằng trực giác nhìn ra cái Giống
với, cái Toàn thể, nên thấy được cái mới từ những thành phần cũ.
Sự thông minh và học thức gia
tăng khả năng hệ thống hóa cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cùng với tính chặt
chẽ và uẩn súc của lý luận, khiến cho chức năng trầm thêm trọng lượng rất
nhiều.
c)
hướng thân hay hướng tha
Ðây không phải là khuynh hướng luân
lý của vị kỷ, vị tha.
Ít hay nhiều, ai nấy đều hướng
tha và hướng thân, nhưng mặt này có thể lớn hơn mặt kia, đến nỗi lấn át nó. Nếu
một trong hai yếu quá, sẽ có lệch lạc đến cập bờ bệnh hoạn, nhất là đối với kẻ
hướng thân.
Sở dĩ hướng tha hay hướng thân tự
nó chưa có tính luân lý, vì người hướng tha vẫn có thể dùng tha nhân như phương
tiện khi mà, tuy bản chất hiếu nhân khiến họ dễ cảm thông, họ đã dùng thế
thượng phong trong lãnh vực tình cảm để thống trị hoặc lợi dụng trong những trò
chơi ác độc nhắm làm khổ.
Trái lại, người hướng thân tuy dễ
ích kỷ, nhưng nếu lợi dụng được khuynh hướng ấy để tìm Chúa trong mình bằng cầu
nguyện, suy chiêm, họ sẽ tiến tới một đời sống nội tâm phong phú. Có điều, họ
cần tập hướng tha bằng cách quan tâm đến thế giới, đến người khổ đau hay tội
lỗi.
d)
khuynh hướng chủ chốt
Mỗi người có nhiều sở thích,
khuynh hướng. Khi một khuynh hướng trội lên, nó có thể kéo các khuynh hướng kia
theo để làm nên một luồng sức. Khuynh hướng chủ chốt này, khi gặp hướng động sẽ
lớn thêm, và suy yếu khi gặp hướng tĩnh.
Trong giáo dục và tu thân, nên
biết lợi dụng một khuynh hướng mạnh để bù vào chỗ yếu kém của một khuynh hướng
khác. Nhất là tạo ra một điểm tụ nhân cách bằng sự kết hợp các khuynh hướng
quanh một khuynh hướng chủ chốt, quanh một tham vọng cao cả.
e)
cấu trúc tâm hệ (structure du psyché)
Âm hưởng trầm, hơn hay kém giữa
người này với kẻ kia, là do các hình thái cấu trúc muôn mặt của tầng nền tâm
hệ, khiến cho mỗi người có những hướng nhạy bén (thuận hay nghịch) không giống
với người khác. Hướng nhạy bén khác nhau là do hệ thống hóa (systématisation)
khác nhau. Nguyên nhân là cả bản tính lẫn văn hoá và giáo dục. Vậy đây có phần
góp lớn của quá khứ: quá khứ cá nhân ở giáo dục và kinh nghiệm, quá khứ giống
nòi ở bộ nhớ vô thức. Do đấy mà cách phản ứng bất thần của một người Việt không
thể lẫn với của người Âu hay người Phi châu.
Ngoài những yếu tố phụ mà các tâm
lý gia quen nói đến trên kia, thiết tưởng nên lưu ý đến hai yếu tố khác nữa:
giới tính và tuổi tác.
--
Giới Tính
Người nam hướng động hơn, và
người nữ hướng cảm hơn. Nghĩa là độ hướng động gia tăng với nam tính, và độ
hướng cảm lớn thêm với nữ tính. Thế nhưng giới tính còn tràn xa hơn thế. Nó
thấm nhiễm và biến đổi gần như hoàn toàn tâm hệ, khiến phản ứng nào cũng sặc
mùi nam hay nữ. Và một phụ nữ, dù tính đàn ông đến đâu, trong những trường hợp
cực cùng (extrême) và bất ngờ, sẽ để lộ ngay nguyên hình giống phái. Và với đàn
ông nữ tính cũng thế, trừ phi bộ phâïn sinh dục biến đổi nghiêm trọng.
--
Tuổi Tác
Tuổi tác ảnh hưởng đến ba yếu tố
nền tảng. Người trẻ thường năng động và người già cầu an. Người trẻ dù chức
năng nổi đến đâu, khi già cũng trầm đi khá nhiều. Người già cũng dễ xúc cảm
nữa.
Biết mình ở khí chất
Từ ba thành phần nền tảng: Cảm,
Ðộng, Âm hưởng, tâm lý học phân ra 8 khí chất chính yếu từ 8 tổ hợp của những
yếu tố ấy: Và đó là:
CđN gọi theo đặc điểm chính, là Sôi nổi (nerveux)
CÐN gọi theo đặc điểm
chính, là Nóng vội (colérique)
CđT gọi theo đặc điểm
chính, là Tình cảm (sentimental)
CÐT gọi theo đặc điểm
chính, là Ðam mê (passionné)
cÐN gọi theo đặc điểm
chính, là Lanh động (sanguin)
cÐT gọi theo đặc điểm
chính, là Lỳ lạnh (flegmatique)
cđN gọi theo đặc điểm
chính, là Ươn ưởi (amorphe)
cđT gọi theo đặc điểm
chính, là Quán định (apathique)
1.
SÔI NỔI (nerveux): C đ N
Ðúng là sôi, sôi sục (impétueux)
ấy. Nhưng lại nổi, tức nông cạn, không sâu rễ, nên cũng chẳng bền. Vì tuy hướng
cảm, nhưng cảm ngưng ở bề mặt, gần như không vang vọng tới tầng hầm của những
kết cấu do quá khứ. Vậy chỉ có kích thích từ ngoài là nguyên nhân của xúc cảm
thôi. Ðể rồi kích thích hết, ngọn lửa cũng tàn theo. Ðể rồi, với một kích thích
khác, cảm xúc lại đổi chiều. Con người của hiện tại, một con người dễ đổi thay,
khó kiên trì và thiếu chung thủy. Vừa thích đấy, đã chán ngay, thích thì thích
đáo để, mà ghét cũng mau nữa. Vui thì thật ồn ào, mà buồn thì ỉu xìu. Vì hướng
tĩnh, nên năng lượng, bị bít nẻo căng động (tendance) sẽ dồn cho cảm xúc. Do đó
mà sục sôi (impulsif). Có điều nếu sôi qúa, có thể xì ra qua nắp an toàn thành
hành động. Sôi sục khi ấy sẽ là sục sôi phản ứng (impulsion réactive), nên đây
là người thụ động. Khác với sục sôi nổ bung (impulsion explosive), không do
kích thích từ ngoài cho bằng do thùng thuốc chất sẵn bên trong, ở tầng chìm
(chức năng T), khiến kích thích chỉ làm công tác châm ngòi, một điều kiện hay
cơ hội thôi.
Con người không kết cấu bề sâu,
không được hướng dẫn bởi suy tư và đánh giá khách quan theo nguyên tắc, nên đây
là con người vị kỷ, ưa cái dễ dàng, tìm những thỏa mãn hiện tại, do đó thích
mốt, khoái cờ bạc, ma túy, khoái thú vui nhục dục. Vâng, đây không phải con
người phù hợp với đời sống kỷ luật và khổ hạnh đâu. Có điều, thiếu bề sâu, anh
cũng thiếu thâm căn cho sự ác. Vì thế, lắm kẻ dối trá mà không gian hiểm, hay
khoe khoang mà chẳng kiêu căng, làm ầm lên đấy mà chẳng hại người bao giờ.
Vì hướng tĩnh, lại cảm mạnh, nên
nếu năng lượng dồn quá vào cảm xúc mà không phát tiết ra hành động được, năng
lượng ấy sẽ tàn phá bên trong, thậm chí nhờ tưởng tượng, nó biến thành một sức
mạnh tà quái, khiến đương sự mê thích cái rùng rợn, chết chóc, tà độc, đê hèn,
và đây là cơn lốc nó xoáy về hư vô.
Tĩnh, nhưng Cảm và Nổi, người sôi
nổi tuy vẫn động mà không hành động. Người hành động nhắm tác phẩm, còn y chỉ
nhắm cảm giác và sự thay đổi ở hành động thôi. Ðể sướng khoái, y không cần thực
tại khi mà tưởng tượng đủ sức cung cấp cho y cái để hưởng. Y dễ thành thi sỹ,
nghệ sỹ nhờ cảm xúc mạnh và tưởng tượng phong phú, cũng như nhờ độ nhạy cảm lớn
do chức năng nổi của mình.
Do tính khí, con người sôi nổi có
nhiều nguy cơ trụy lạc. Y phải cố gắng nhiều mới có thể tự chủ. Bằng khép mình
vào kỷ luật mà y vốn không ưa. Bằng tập cân nhắc, suy tư mà y không sở trường.
Y có thể lợi dụng ưu điểm ở hướng cảm và tưởng tượng phong phú để đi vào suy
chiêm cảm tính (méditation affective) về hành động của những nhân vật cụ thể,
như Chúa Yêsu, Ðức Mẹ... Bằng tình yêu siêu nhiên do đó và với ơn Chúa, y có
thể làm được cái mà tự tính khí y không làm nổi.
2.
NÓNG VỘI (COLÉRIQUE): C Ð
N
Hướng cảm tăng sức cho hướng
động, nên CÐ là con người sục sôi hành động. Cũng là con người đầy sức sống và
ham sống, do đó dễ diễn đạt, nói năng, cũng như thích ăn uống và giầu nhục dục.
Vì vui tính và thích người, nên tính tình chị hăng nồng, dễ cảm thông, mau giúp
đỡ. Sự thiện cảm phát lộ trên gương mặt, khiến chị coi dễ thương, thành người
lôi cuốn mọi người.
CÐ nhưng chức năng Nổi, anh thành
kẻ hướng ngoại (extraversif), nhanh trí và tháo vát. Có điều hành động vội vã,
mong kết quả ngay. Do nhu cầu hành động, chưa xong việc này, anh đã bắt đầu
việc khác. Thiếu chức năng Trầm, nên cũng thiếu ăn khớp, yếu kế hoạch; lại
hướng về những chương trình ngắn hạn hơn là chương trình đại quy mô, có chiều
dài thời gian và bề xa đích nhắm. Sự sôi sục, nóng vội dễ biến anh thành người
của những cuộc nổi loạn, biểu tình.
Nhạy cảm, thêm hướng ngoại, anh
là người nói nhiều, nói giỏi, nói mạnh, nói phóng đại và đầy sức thuyết phục.
Anh thích phiêu lưu và hành động táo bạo, nên khi cuộc sống không cung cấp đủ,
anh tìm bù trừ bằng cách viết tiểu thuyết loại giật gân.
Ưu điểm của khí chất này là ở CÐ,
nhưng khuyết điểm là do N. Vậy cứu cánh là ở chức năng Trầm mà cả anh và chị
phải dựa vào dù nó quá yếu. Nghĩa là phải gắng hướng nội, suy tư để đặt mỗi yếu
tố vào chỗ đứng phải có của nó trong một hệ thống hay kế hoạch. Và trước khi
hành động, phải tính hành động sao cho có mức độ và trung dung.
3.
TÌNH CẢM (sentimental): C
đ T
Hướng bất động (đ) gặp C sẽ đưa
cảm xúc dội ngược vào trong. Vang vọng càng sâu xa với T nét đậm. Ðây là con
người sống bằng nội tâm, nhưng chưa phải theo ý nghĩa thiêng liêng của nó. Họ
hướng về mình như một chủ thể, và họ phong phú ở bề sâu, trong suy tư, tưởng
tượng và tình cảm.
Tuy đây là con người tình cảm,
nhưng vì bề sâu có sắp đặt (được hệ thống hóa do T), nên họ chỉ nhạy cảm tùy
vấn đề thôi, nhất là nếu ý thức trường lại hẹp nữa.
Họ có nhu cầu yêu thương và được
yêu thương, nên họ hiếu nhân và thành người tốt bụng.
Không ham hoạt động và dửng dưng
với bên ngoài, họ ưa sống với mộng mơ và ít năng khiếu khoa học, kỹ thuật, kinh
tế. Vì hướng tĩnh, nên họ cũng thiếu nghị lực. Họ là người nhút nhát và không
mấy dứt khoát.
Không quan tâm đến ngoài và thiếu
cái nhìn thực tiễn, họ là người ít thực tế, lại vụng về nữa. Họ dễ bị đả thương
về mặt tình cảm, nên có khuynh hướng tự vệ và khép kín.
T sâu và C mạnh khiến họ hướng
nhiều về tuyệt đối, nên dễ bất bình trước khuyết điểm xung quanh và ray rứt về
sự thiếu xứng đáng của mình. Ý thức luân lý sâu nhưng không nghị lực thi hành,
họ tìm thăng hoa trong nghệ thuật và tư tưởng.
Nhược điểm của người tình cảm là
ở yếu tố đ. Họ phải dùng C và T để sửa lại chỗ yếu do đ gây nên. Dùng suy và
chiêm để nuôi động cơ và cảm xúc, họ sẽ được thúc đẩy để hành động. Tính trầm
buồn, họ hãy gieo mầm hưng phấn bằng ý tưởng nhập thể, phục sinh. Hướng về đau
khổ của xung quanh, họ sẽ bớt bị gặm nhấm bởi đau riêng của chính mình, lại còn
luyện được cho mình một tình thương bao la mà họ thừa khả năng vươn tới.
4.
ÐAM MÊ (passionné): C Ð T
Ð hướng về đối tượng, về trần thế
và xác thân; C hướng về tâm hồn, trong khi T hệ thống hóa tư tưởng và hội nhất
các chức năng. C-Ð-T sẽ bội tăng sức lực cho nhau, khiến khí chất đam mê thành
phong phú nhất, vững chắc nhất, từ đó vọt lên những con người làm lịch sử.
T điều hòa Ð, giúp đặt mỗi vấn đề
vào trong toàn cảnh, giúp thấy nhanh, thấy rõ và thấy sâu: sự sắc nét của một
cái nhìn. Ð nhờ T soi sáng hẳn tạo ra sự ngăn nắp và tinh thần độc lập.
Nhờ T xoáy thêm vào chiều sâu, C
sẽ bốc bổng về hướng thiêng liêng. Nhờ CT nâng lên, Ð khỏi bị trọng lực ghì
xuống, nên kẻ đam mê không phải là kẻ ham khoái lạc. Tuy Ð bơm nghị lực cho,
nhưng CT hãm bớt lại, khiến kẻ đam mê không phải là kẻ can đảm nhất đứng trước
nguy hiểm. Tuy T thiên về quá khứ, nhưng nhờ Ð anh vẫn phóng được về tương lai.
Vì tương lai ấy mà tất cả tập trung trong cùng một hướng nhắm (visée), và đây
là sức mạnh của một giòng thác, giòng ấy ổn định và vững bền.
Người đam mê là người dồn sức cho
một đam mê thôi, nên hờ hững với những gì bên lề. Và tuy rất lý tưởng, họ là
người thực tế. Họ không dừng ở mơ ước, vì điều ước mơ không thể họ không thực
hiện. Tất cả cho thực hiện, nên họ sẵn sàng đập tan những gì cản lối, do đó dễ
sinh tàn nhẫn.
Con người của hệ thống hóa, của
kỷ luật, nhưng lại là con người của xúc cảm và sục sôi, anh vừa thích điều
khiển, vừa có khiếu chỉ huy. Anh dễ kiêu đấy, nhưng không phô trương, không
thích hào nhoáng.
Nặng về C, chị dễ thành sùng đạo.
Thêm T vào, chị mực thước và đạo đức. Ðể rồi với Ð, lòng sùng đạo kia biến chị
(hay anh) thành chiến sỹ tông đồ.
C khiến ta hướng về con người hơn
là công việc. Nhưng với T, con người mà ta yêu có dạng lý tưởng và tổng quát
hơn, nên mong muốn của ta là cải hóa xã hội. CÐT là những núi lửa đam mê, nó
tạo thành những tham vọng lớn, tham vọng biến cải trần gian.
5. LỲ
LẠNH (flegmatique): c Ð T
Nếu CN khiến bồng bột, sôi nổi,
cởi mở, thì cT trái lại sẽ tạo nét lãnh đạm, kín đáo và khiến ít nói. Suy nghĩ
chín chắn, đây là con người mực thước và nhìn rộng, thấy xa. Mặt không biến sắc
trước nguy cơ, tim không đập dồn trước khiêu khích, anh là người can trường, vẻ
thản như không.
Không có C lôi cuốn, lại được T
sắp đặt ngăn nắp bên trong, anh là kẻ ưa trừu tượng, khách quan, con người của
nguyên tắc, luật lệ và tập quán. Ít tình cảm, lại khách quan, anh không chú ý
đến con người, mà chỉ quan tâm đến công việc. Anh cũng không ưa phù phiếm, lại
là người tiết độ và nghiêng về tiết kiệm. Anh khá đúng giờ và dễ có năng khiếu
toán. Vốn thẳng thắn và tính khí không thất thường, anh đáng được người xung
quanh tín nhiệm.
6.
LANH ÐỘNG (sanguin): c Ð N
Thiếu C, lại Nổi nữa, đây là con
người hướng ra ngoài và căng về hành động. Hành động do nhu cầu và thiếu bề
sâu, nên đây là kẻ hiếu động, tìm niềm vui ở hành động, và yêu thích thể thao.
Thiếu sự phong phú nội tâm, nên khi không động được mà trở về với mình, y sẽ
thấy trống trải và đơn côi khủng khiếp.
Con người của hiện tại và bên
ngoài, y quan sát chính xác dù không sâu sắc, y quan hệ khéo léo nên giỏi xã
giao. Tuy xã giao, nhưng y chẳng hiếu nhân vì thiếu C. Thiếu C, y ưa trừu
tượng, khách quan, dễ có khiếu về khoa học thực nghiệm (không phải khoa học lý
thuyết kiểu Einstein). Y chẳng ái quốc, cũng chẳng phải con người xã hội hay
sùng đạo chi cả.
7.
ƯƠN ƯỞI (amorphe): c đ N
C và Ð là hai sức bật duy nhất.
Cho nên, yếu cả C lẫn Ð, con người sẽ không sức sống, không nghị lực. Một con
người thụ động và trì hoãn, lưỡng lự và ươn lười, để hiện tại làm chủ do chức
năng N. Không gì thúc bay lên, chỉ có khoái lạc lôi cuốn, người của trọng lực
mà. Cảm tính yếu, thì cũng chẳng ái quốc, sùng đạo, chẳng lý tưởng cái chi chi.
8.
QUÁN ÐI�NH (apathique): c đ
T
Không sức sống, lại chìm nghỉm
trong T, đây là con người nô lệ cho quá khứ và thói quen. Thói quen riêng: tập
quán; thói quen chung: phong tục. Và cuộc sống cứ lạnh lẽo trôi đi giữa hai bờ
đê chán ngắt đó. Lỡ ra bị bứt khỏi môi trường sống quen thuộc, y sẽ mất phương
hướng và buông xuôi một cách nguy hiểm.
Không sức để bật ra khỏi T, tầng
chìm, y là con người khép kín. Khép kín trong căn phòng trống rỗng của lòng, y
phải buồn, bằng một thứ buồn chịu đựng, thế thôi.
Không C, lại đeo những đặc điểm
trên, y vừa không dễ mến, vừa chẳng thích giúp ai, lại khó làm hòa nữa. Cứng
nhắc trong một ý tưởng, y là con người ương ương dở dở. Y cũng có khuynh hướng
hà tiện và tàn nhẫn. Dù y có năng khiếu gì, năng khiếu ấy cũng giảm suy do cđ.
Nên nhớ, chẳng ai là không có C,Ð
và T dù với cấp độ khác nhau, nên không hề có quán định thuần túy cũng như
không có đam mê thuần túy, v.v. Anh hay chị đều là người của nhiều khí chất,
với một hai khí chất nổi bật, thế thôi. Do đó, sau khi chia thành 8 khí chất
chính rồi, người ta lại phân nhánh (subdiviser) chúng, thành Tình cảm nặng về
chức năng Trầm..., Ðam mê bán sôi nổi..., Lỳ lạnh thuần túy hay lỳ lạnh cởi mở,
v.v... Với những khí chất phong phú như Ðam mê, sự phân nhánh càng phức tạp hơn
nhiều.
Phân loại tính khí theo Jung
(Phần
lớn dựa theo tác phẩm của Jung: "L'homme à la découverte de son âme",
ed. Mont Blanc, Genève, 1962)
K. Jung không gọi Khí chất, mà
dùng tiếng Mẫu người (types). Theo ông, có hai mẫu chính: hướng nội (introverti)
và hướng ngoại (extraverti). Những mẫu ấy được kiến trúc trên bốn chức năng và
ba yếu tố phụ hưởng.
A.
BỐN CHỨC NĂNG (fonctions)
Ðó là trực giác, cảm giác (hay
thụ giác), tình cảm và tư duy. Mỗi người có đủ bốn chức năng ấy và vận dụng
chúng trong sinh hoạt hàng ngày. Nhưng mỗi người lại mạnh về một chức năng; và
mạnh chức năng nào, họ sống theo chức năng ấy. Kẻ sống theo lý trí thích nghi
cuộc sống với tư tưởng, kẻ sống tình cảm thì giao tế dễ; kẻ sống cảm giác thì
quan sát giỏi...
Có điều tư tưởng thì trừu tượng
nên lạnh lẽo, tình cảm dễ nghiêng lệch nhưng là hồn sống nội tâm. Nên một con
người quá trí thức, đêm ngày dìm mình trong tư tưởng hay tù hãm trong la-bô
(laboratoire), một lúc nào đó sẽ thấy cô đơn khủng khiếp, để rồi con quỷ Tình, mai
phục sẵn trong mình, sẽ quật ngã ông trong phút giây: ông cảm thấy đờ đẫn, như
bị ám bởi một sức mạnh tà thiêng nào đó.
Nếu con người tư duy phê phán
theo các nguyên tắc của lý trí, thì con người tình cảm lại ngả theo giá trị
(valeur). Nếu người sống lý trí dễ nghi ngờ, thì người tình cảm lại có cái yếu
là cả tin. Nói chung thì người dễ tin, đến mù quáng trong niềm tin, thường thấp
kém về mặt trí thức. Còn người đa nghi, không phải kiểu Tào Tháo, mà kiểu
Descartes và tông đồ Tôma, lại là nhà bác học, thần học, v.v...
Người sống trực giác thì sống với
cái bao la hơn là cái hiện thực trước mắt, và vượt hiện tại về hướng tương lai
xa. Chức năng Trầm của họ có thể bắt tay với vô thức, khiến trực giác sẽ là tri
giác (thấy trực tiếp, perception), nó như vọt ra từ vô thức, rất diệu kỳ. Vâng,
đúng là từ vô thức, ở đấy diễn ra trong chớp nhoáng công tác hệ thống hóa và
phối trí thông tin, thứ thông tin được tích góp từ ức triệu đời kinh nghiệm. Vì
thế mới nói, kẻ sống trực giác sống trong cái bao la của không gian, trong cái
vô tận của thời gian, không ý thức lắm về thực tại, khiến công việc này chưa
xong, đã bỏ sang với những hy vọng mới. Sự thực của họ là cái Phải có, hơn là
cái Hiện có đây. Cái Hiện có đây, đó là thực tại của mẫu người đối lập, người
sống cảm giác.
B. BA
YẾU TỐ PHỤ HƯỞNG:
� Ký ức. Quá khứ là căn bản để họ
thẩm định tương lai và hiện tại.
� Những đóng góp chủ quan (còn trong vòng kiểm soát được). Tùy
con người bên trong (của tôi) thế nào, mà tôi sẽ ưa hay ghét cái này hoặc cái
kia, kiểu người này hay kiểu người khác.
� Những cảm xạ (affect). Ðây là những sức mạnh độc
lập và quái dị, thường xuất hiện ở con người man dã, nguyên thủy, và đôi lúc
vọt thình lình từ chính con người văn minh, vọt như tia chớp và chế ngự hoàn
toàn. Những hoang tưởng (fantaisies) nào đó kết thành ấn tượng bất ngờ, thành
thành kiến và đố kỵ, gây sợ hoảng, v.v...
C.
HAI MẪU NGƯỜI:
Ðó là hướng nội (introverti,
introversif) và hướng ngoại (extraverti, extraversif). Nói hướng nội hay hướng
ngoại chỉ là nhắm cái khuynh hướng vượt trội trong hai, chứ chẳng ai hướng nội
đến chẳng nghĩ gì ngoài mình, và đảo lại cũng đúng nữa. Chính vì thế, dù hướng
ngoại đến đâu cũng suy chiêm được, và kẻ quen nghĩ đến mình vẫn có thể tập quan
tâm đến người khác.
Theo Jung định nghĩa, thì người
hướng nội nghiêng về chủ quan (subjectif), trong khi người hướng ngoại đánh giá
cao khách thể. Và đấy là hai cách tiếp cận thiên nhiên, hai cách thích nghi với
nó. Kẻ hướng ngoại thì tấn công và đắp xây ngoại vật, còn người hướng nội thì
chịu đựng nó, nên có thái độ khép kín và thủ thế.
Người hướng ngoại quá sẽ tìm bù
trừ trong một hướng ngã (chủ quan) vô thức và kỳ cục, bằng một quan tâm trên
mức xứng đáng, hay bằng một thứ ưa thích (gout) trẻ nít chả hạn. Người hướng
nội quá, vì lấy mình làm thước đo (chủ quan) cho tất cả, sẽ bị khách thể quật
lại khi nó thành một sức ám ảnh. Thí dụ như, một lúc nào đó, bỗng nổi lên trong
kẻ độc đoán một khát khao được yêu ghê gớm bởi chính kẻ mà hắn vẫn gò ép trong
khuôn (Gần đây, thiên về sinh hóa, có người phân chia tính khí theo sự trội
thăng của một trong ba chất dẫn truyền thần kinh: Dopamine (sôi nổi, thích
mới), Sérotonine (hướng tĩnh), Norarénaline (tình cảm, hướng về đáp đền). Cũng
gần đây, một số người Công Giáo Mỹ trở về với Cửu tính khí của cổ Afghanistan).
Từ những phân định khí chất trên,
những dự phòng và chỉnh đốn
Khí chất không phải là định mệnh.
Nó chỉ là nền tảng từ đó mình xây dựng mình. Nó chỉ là hướng gió mà buồm phải
nương theo để vượt về phía muốn đến. Vậy phải biết khí chất mình để lựa đích
nhắm, định đường đi. Và trước khi lên đường, cần kiểm tra then máy, sửa chỗ
này, tăng cường cho chỗ kia, đề phòng trước những trục trặc có thể.
Biết khí chất mình, thật ra không
dễ. Trở lực lớn nhất là tự ái. Do tự ái mà chủ quan. Ai chả mong muốn một khí
chất phong phú nhất và từ chối những khí chất quá tầm thường. Thế mà ai lại
không phảng phất vài đặc điểm của những khí chất mình mơ ước. Họ sẽ cố thổi
phồng những nét ấy và lờ đi những nét không tốt. Vì thế, phải khách quan, và
nhờ người khác nhận xét nữa.
Biết nền tảng khí chất rồi, phải
dự phòng và chấn chỉnh.
Sao phải dự phòng, và dự phòng
cái gì?
Biết đâu tôi đang ngồi trên một
hỏa diẹâm sơn làm thành bởi khí chất và những gì đó thuộc tầng ngầm vô thức? Vì
quả đôi lúc có những xung động vượt khỏi tầm kiểm soát của tôi. Ðây là những
cơn giận đột ngột, những hoang tưởng như không nguyên do, những thành kiến hoặc
ác cảm vô lối mà tôi không bỏ đi được. Có thể là do những cảm xạ (affect) từ vô
thức phụt ngang ra. Có thể là do những ẩn ức kết tinh hồi thơ ấu. Cũng có thể do
chính khí chất và cấu trúc tâm lý đó thôi. Một con người tình cảm, với sự gặp
gỡ của C với đT, dễ đứng bên bờ của vực thẳm bệnh tâm thần. Chỉ cần một thoái
hóa (dégénérescence) đáng kể hay một tai nạn nào đó. Những thử nghiệm cho thấy
25,6% loại hướng cảm có nguy cơ này, trong khi tỷ lệ ấy ở vô cảm chỉ là 9%
thôi. Nói chi đến sự liên minh của hướng cảm với đ và T!
Người tình cảm là người dễ bị
chấn thương nhất. Hướng cảm, mà do đ lại không thể thoát ra bằng hành động, do
T bị gặm nhấm ở bề sâu, nên chỉ cần một lời chỉ trích từ phía người thân là có
thể con tim xuyên suốt, chỉ cần một tai ương mình gây cho người do sơ ý là
lương tâm hành hạ suốt đời. Vâng, người tình cảm là người ý thức sâu về luân
lý, người thiếu nghị lực để làm theo đòi hỏi lương tâm, nên dễ mặc cảm và bối
rối. Càng dễ bối rối khi mà phép Hối giải nặng về Xét và Xưng do thói quen
trung cổ để lại, khiến đêm ngày lo không biết xả rác (bằng xét, xưng) đã sạch
chưa.
Bệnh bối rối (scrupuleux) là bệnh
rất khó chữa và phải chữa lâu ngày. Phần nào đã là bệnh hoạn, đã mấp mé trên bờ
vực của mặc cảm tội lỗi, của suy nhược tâm thần (psychasthénie), nên cần trị
gấp và cương quyết trị.
Kẻ bối rối vì tội nên bớt xưng
tội. Họ hãy khách quan hóa trường hợp của mình, coi như của một người nào đó mà
mình muốn giúp. Khách quan thấy thế nào, định khuyên họ ra sao, anh hãy làm
đúng thế cho anh. Vì nguyên nhân bối rối tập trung nhiều ở T, nên hãy tự giải
tỏa bằng cách quan tâm đến công việc, bằng cách giải trí, thể thao,v.v. Nhất là
bằng cách phát triển lòng tin tưởng, phó thác.
Với kẻ siêu T, khuynh hướng tiết
kiệm mạnh quá dễ đưa tới hà tiện, tiếc tiền. Phải lưu ý đứa trẻ ngay khi thấy
triệu chứng ấy nơi nó, vì thứ bệnh này sẽ nặng hẳn lên vào lúc đời xế bóng và
trở thành nan y. Với kẻ có khuynh hướng hoang phí, thì phải tập cho y làm sổ
chi thu, ép y làm việc kiếm tiền để biết coi trọng đồng tiền. Còn ai nghiêng về
dè xẻn lại phải bớt tính toán và tập ở rộng với người khác.
Nguy cơ còn có thể là nguy cơ tội
ác. Không phải khí chất là nguyên nhân tội ác đâu. Nhưng nó có thể sinh ra
những "hướng chiều" chúng là tác nhân (facteur). Quả thật, nếu siêu-T
nhút nhát, thì siêu-N lại dễ làm liều. Y phải tập hãm thắng bằng cách "uốn
lưỡi bảy lần trước khi nói", đắn đo một phút hẵng hành động. Ðối với những
quyết định quan trọng của đời, y phải sửa soạn bằng nguyện cầu và suy tư, thậm
chí bằng tĩnh tâm nữa.
Ðối với ai nghiêng về ham muốn,
ăn chơi, chỉ có thói quen khổ hạnh và "làm ngược" (agere contra) mới
giúp trị được con ngựa bất kham ấy. "Agere contra", thích gì làm
ngược ý thích đó, là phương châm sống mà thánh I-nhã (Ignace de Loyola) đề nghị
với những ai muốn nên thánh và làm chủ mình. Thói quen sống đạm bạc và tiết độ
cũng sói mòn những khuynh hướng như phóng túng và thỏa mãn nhục dục. Ði đôi với
phương pháp hãm thắng ấy, phải có cách chuyển dòng cho nước nữa. Dòng nước là
năng lượng tâm-sinh. Theo quy luật tâm lý, ta có thể giữ dòng mà chuyển hướng
hay chuyển đối tượng. Vậy, thay vì thú vui nhục dục, hãy tìm tình yêu trong
sáng; thay vì cờ bạc, hút sách, hãy đến với những đam mê thanh cao, như văn
thơ, âm nhạc, hoạt động xã hội hoặc tông đồ. Vâng, phải tìm chỗ thoát cho những
xối trào, chứ nếu chỉ kìm hãm xuông, thì dễ có bùng nổ.
Ðấy là dự phỏng. Và phần nào đã
là chỉnh đốn. Phải chỉnh đốn vì thường có lệch nghiêng. Ðộ nghiêng có thể tăng
theo với thời gian, và khi thành lệch lạc, thì sẽ mất ổn định, khó phát triển,
dễ đi đến nghẽn tắc, thoái hóa.
Vậy, dù siêu Nổi hay siêu Trầm,
dù siêu Cảm hay siêu Lãnh, siêu Tĩnh hay siêu Ðộng, tất cả đều có vấn đề. Người
Ðộng quá hãy dùng CT để vững lại ở bề sâu; người Tĩnh quá hãy nổ kíp (amorce) C
để giúp xe chuyển bánh. Trong khi ấy, người siêu-Nổi cần trụ lại bằng thói quen
cân nhắc, suy tư, còn người nhút nhát do quá Trầm hãy cố phiêu lưu một tí (Vì
phải thúc cho mình bạo lên bằng xúc cảm lớn, người nhút nhát dễ nóng lên bất
ngờ, thành người "cục")...
Dựa theo đó, chọn lý tưởng và tìm hiểu ơn gọi
Trên đây, mới chỉ là vệ sinh và
chỉnh đốn. Bây giờ đến việc chính là Xây dựng: Từ nền tảng khí chất đã khám phá
và dựa vào những đòn bẩy khí chất ấy, ta phải cải hóa mình thành người tốt, một
thánh nhân theo kiểu mẫu phù hợp với khả năng của ta, nghĩa là tùy ơn gọi
(vocation) của ta. Ðây là khai thác hết nguyên liệu, khai triển hết tiềm năng,
hội nhất mọi yếu tố trong một tác phẩm độc đáo. Chỉ có thể hội nhất nhờ tập
trung. Chỉ có thể tập trung trong một hướng nhắm (visée) nhờ một cái đích biết
đặt ra và cố vươn tới: tôi có ý nói, một lý tưởng.
Lý tưởng vừa là đích nhắm, vừa là
chân trời; còn định hướng cuộc đời là ơn gọi vậy. Tên Ơn gọi vì đây là ý Chúa. Tên định hướng vì
đây là hướng nhắm hợp lý của tổng thể các tiềm năng và khuynh hướng nơi tôi. Ý
Chúa (hay thiên mệnh) không lơ lửng trên mây, mà in hình rõ nét ở chính con
người tôi thành một thứ ơn gọi tự nhiên: ơn gọi thủy thủ hay nghệ sỹ, cùng với
ơn gọi làm người và phục vụ trong chính những môi trường sống ấy.
Ơn gọi siêu nhiên thấm nhiễm ơn
gọi tự nhiên đó, đồng thời thiêng liêng hóa đích nhắm và thu hẹp vòng cung định
hướng vào một loại hình nhất định. Như trong trường hợp của một người thuộc khí
chất đam mê, với khí chất ấy anh được làm nên cho cả ngàn những lý tưởng quan
yếu khác nhau. Khuynh hướng và khả năng riêng, cùng với phương tiện và hoàn
cảnh nhất định, tất cả thu khá hẹp vòng cung định hướng rồi. Dầu với những giới
hạn đó, vòng cung định hướng vẫn còn khá rộng. Ơn gọi siêu nhiên hoặc chỉ phủ
lên vòng cung ấy một lớp mạ (bóng) siêu nhiên (để anh tùy nghi chọn lấy một
nghề nghiệp và con đường thích hợp, đồng thời làm chứng trong đó); hay, cùng
với lớp phủ siêu nhiên ấy, thu hẹp vòng cung vào một lý tưởng đặc biệt: tông
đồ..., vào một loại hành động thôi: giáo dục thiếu nhi..., và vào một nếp sống
rõ hẳn: độc thân giữa đời, dâng hiến trong một hội tu...
Vì ơn gọi siêu nhiên, tuy nằm ở ý
Chúa, mà vẫn lộ ra nơi bẩm chất, hoàn cảnh, tâm tình tôi, nên tôi phải dò tìm
nó vừa trong cầu nguyện, vừa bằng thẩm vấn chính mình. Sở dĩ Chúa gọi tôi vào
con đường này hơn là con đường kia, vì tôi thích hợp với con đường ấy do khả
năng, bản chất, và cũng vì Chúa đã sinh tôi ra trong một gia đình như thế, cũng
như đặt trên đường tôi đi những tấm gương tốt, những hoàn cảnh thích hợp. Thế
rồi, vào lúc đã chín mùi, Chúa sẽ nói với tôi bằng những tâm tình và ánh sáng
bên trong. Vâng, ơn gọi không rơi cái độp, bất ngờ hoàn toàn đâu. Ngay cả với
Phaolô trên đường Damas cũng vậy. Ði đúng ơn gọi là vào đúng con đường hợp với
khẩu vị và khả năng, khiến tôi phát triển dễ, hội nhất mau, do đó đắc thủ niềm
an vui sâu xa của Chúa.
Ơn gọi, nhất là ơn gọi chuyên
biệt, vừa là ý Chúa, vừa là con người tôi. Không thể có ơn gọi tận hiến
(consécration totale) nơi một người thiếu ý chí hay giữa một khu vực điếm đàng.
Nên phải sửa soạn mảnh đất cho ơn gọi và vun trồng khi nó tới.
Nếu ơn gọi không rơi độp bất ngờ
hoàn toàn, thì nó cũng không vừa chớm đã lớn vọt ngay. Bắt đầu có thể là cái gì
đó còn yếu ớt, lờ mờ. Với công vun xới, nó sẽ rõ dần và mạnh lên. Ơn gọi có gì
là chính con người tôi đó. Nên đây là công việc của mỗi người đối với bản thân,
của mỗi gia đình và cộng đồng dân Chúa đối với con em mình.
Nếu xét từ mình vươn tới, thì đây
là ơn gọi; nếu xét từ phía đích nhắm thì lại là lý tưởng (idéal). Lý tưởng chưa là sự thực, mà
mới là ý tưởng. Cái mà lý tưởng nói lên bao giờ cũng hoàn hảo, ở mức mà thực
tại chỉ có thể vươn gần tới thôi. Chẳng hạn như để có ơn gọi làm lính, tôi chỉ
cần sức khỏe và can đảm kha khá. Chứ lý tưởng Người lính không nhắm lính suông,
nhưng lính hoàn hảo: Người lính lý tưởng mà! Lý tưởng thì người ta vươn tới,
chứ đạt tới thì không thể. Nên đây là chân trời, chứ không phải thực tại. Trừ
một mình Thiên Chúa, toàn mỹ đấy, mà cũng hiện thực luôn. Thiên Chúa là đích
cuối, nhưng xa vời quá, nên không ai dám chọn Ngài làm lý tưởng. Lý tưởng, để
hấp dẫn con người, phải có gì như thấy được. Bằng thịt xương đấy, mà cũng lý
tưởng luôn, chỉ có một mình Ðức Yêsu Kytô.
Vâng, lý tưởng (idéal) tự nó mới
chỉ là ý tưởng (idée), nên trừu tượng và lạnh lẽo. Phải cụ thể hóa nó bằng một kiểu mẫu (type, modèle): mẫu chiến sỹ nơi
Nguyễn Huệ, mẫu bác ái nơi Thérèse vùng Calcutta. Mẫu thì chưa hẳn là lý tưởng,
nhưng khá gần rồi.
Nếu kiểu mẫu đang sống hay mới
đây còn sống, thì nó thành thần tượng. Bằng như đã xa xưa, thì với trí tưởng
phải sống động hóa nó. Là kiểu mẫu đang sống, lại là người chí thân, Chúa Yêsu
đúng là thần tượng của tất cả.
Có điều, tuy Ngài có mặt đây mà
mắt tôi không thấy, nên với kẻ chưa kinh nghiệm Ngài, Ngài mới chỉ là ý tưởng
thôi. Phải làm sao cho cái mới chỉ có hình ý tưởng ấy nên dạng hình người với
bộ ngực phập phồng và đôi mắt thiết tha. Tôi chỉ làm được thế, phần nhờ ân sủng
Chúa, phần bằng suy chiêm của tôi.
Chúa Kytô là tất cả, nên cũng là
lý tưởng và kiểu mẫu cho mọi người với bản chất khác nhau của họ. Cả ức triệu
vị thánh, thiên hình vạn trạng thánh, nói lên điều ấy. Mỗi vị tìm thấy nơi Ngài
cái gì đó "hợp gu" mình, và, phát triển về hướng ấy, họ đã nên hoàn
thiện, nghĩa là giống Ngài về một mặt của Ngài. Vì thế, thích Chúa ở mặt nào,
ta có thể chiêm ngưỡng nét đẹp ấy nơi một kiểu mẫu trung gian, một thánh tùy
chọn theo "gu".
Mỗi vị thánh thích hợp với một
"gu", do đó với một loại hình khí chất và khuynh hướng, một loại hình
giới tính và tuổi. Hợp với con người tình cảm, do CđT mà hướng tĩnh, hướng nội,
có các vị thánh chuyên đời cầu nguyện, hình ảnh Chúa Yêsu trên Ta-bo và tại
Nazareth. Hợp với người hướng động, có các thánh truyền giáo và từ thiện, hình
ảnh Chúa Yêsu trước đồng lúa mênh mông hay giữa kẻ đui mù, phong hủi.
Chúa Yêsu trước cánh đồng mênh
mông hẳn hợp gu giới trẻ vốn năng động và lý tưởng, còn Chúa trong Vườn Dầu và
trên núi Ta-bo sẽ an ủi kẻ đau khổ và mang hy vọng cho những ai già yếu.
Theo đuổi lý tưởng và rèn nhân cách bằng ý chí
Sống được lý tưởng thì, nhờ lý
tưởng, sẽ hội nhất được các chức năng và giá trị để làm nên một nhân cách. Sống
lý tưởng và rèn nhân cách cũng là luyện ý chí đấy.
Ý chí là sức mạnh để thắng sức
trì và vượt trở lực. Nó cũng là sức mạnh giúp tôi làm chủ mình, cưỡng lại những
ham muốn không chính đáng và chịu đựng khổ đau.
Chịu đựng khổ đau là việc của ý
chí thụ nhận, thích hợp với loại người đT hơn. Nhưng nếu chỉ thụ động thôi,
thì, một khi đau đớn vượt quá sức chịu đựng, sẽ có dồn nén, do đó tật bệnh, mất
ký ức. Cho nên, ý hướng (intention) thụ nhận cần được phụ trợ bằng ý hướng chủ
tác. Không chịu đựng suông, phải tiến chiếm nữa. Chỉ cần một cái nhìn lạc quan,
và tất cả sẽ đổi. Thí dụ: Lỡ hụt chuyến xe, thay vì tức mình, anh hãy nhủ lòng:
Biết đâu thế lại tốt, tôi có thêm giờ ngắm cảnh ở đây, Chúa sắp đặt hết mà. Tạ
ơn Chúa.
Người hướng động dễ chủ động và
lạc quan. Nhưng coi chừng, chủ động nhiều dễ thiếu khiêm nhu, hoặc khó cảm
thông và nhường nhịn. Nhất là để gặp Thiên Chúa thì, như Vivekânanda nói, không
thể không có thái độ "đàn bài", nghĩa là đón nhận (réceptif). Vậy
người năng động hãy tra thêm vào thái độ tấn công chút gia vị của sự mềm yếu dễ
thương; trong khi người thụ động hãy chủ động hơn trong chính chịu đựng của
mình. Khi đau khổ tới, chị hãy đón tiếp nó bằng thái độ tình yêu: � Con khổ
lắm, Chúa ơi. Nhưng con sung sướng được vác chung thánh giá với Ngài. Trái lại,
đang lúc tất bật với việc xã hội này, tuần giảng thuyết kia, anh hãy nhớ mình
hành động với Chúa, dưới sự an bài và hướng dẫn của Chúa.
Ðể rèn ý chí, nhờ đó luyện nhân
cách và theo đuổi lý tưởng, ta cần áp dụng nguyên tắc AGERE CONTRA, Làm ngược
cái mình thích. Tại sao đó là rèn ý chí? Thông thường khi đứa bé thích ăn kẹo,
nó nói Muốn ăn kẹo. Nó không hề muốn khi không thích. Nó không hơn gì con mèo
nó "muốn" ăn cá và bắt chuột. Muốn và thích bị lẫn lộn, và thực ra
không có muốn vì đây chỉ là buông theo khuynh hướng thôi. Không phải chỉ đứa
bé, mà người lớn cũng quen "muốn" kiểu ấy.
Ðể thật sự có thể Muốn, nghĩa là
muốn Tự mình, thì phải tập tách Muốn ra khỏi Thích. Bằng cách, hễ muốn chi, thì
làm ngược lại, Agere contra. Khi LÀM NGƯỠC đã thành thói quen, các xung động
không còn thống trị nữa, ta đã có ý chí thật, và đó là tự do.
Sự tiết độ, thuật dưỡng sinh,
phương pháp Thiền là những phương thức Agere contra an toàn và hữu hiệu nhất.
Chúng giúp ta sớm đạt tới bề sâu của "cái Dũng người phương Nam"
(theo tiếng gọi của Ðức Khổng), tức sức mạnh tự chủ.
Dĩ nhiên, không ai có thể sống toàn
bằng Agere contra. Vệ sinh tâm lý cần đến một liều lượng tối thiểu Thỏa mãn. Vả
chăng, sống đâu phải để chịu đựng. Phần chịu đựng chỉ là phần nộp phạt do sai
lỡ, phần tiết kiệm để đầu tư. Thánh giá là vốn đầu tư cho Phục sinh, nên nhờ
Phục sinh mà có ý nghĩa (1 Cor.15.17).
Vì thế, sau lao nhọc, cần giải
trí; giữa những gò ép, phải có xả hơi. Miễn là xả hơi vô hại và giải trí thanh
tao, thế thôi.
Agere contra phải từ cái thích
giác quan tiến dần vào những cái thích ngày càng sâu xa, tinh thần hơn, nhờ đó chiếm
lĩnh toàn không gian nội giới. Ðó là những khuynh hướng và tình cảm dù trong
sáng nhưng tự nhiên. Ðó là cái Tôi và sự tự ái. Cuối cùng, là chính ý muốn.
Ðây là đặt ý muốn tôi tùy thuộc
vào ý muốn Chúa. Người ta quen gọi nó là Bỏ ý riêng. Không phải buông xuôi đâu,
mà là Muốn cách toàn vẹn, trong sáng nhất không còn bị đưa đẩy dù bởi những đợt
sóng ngầm rất tinh vi. Do đó, cần đến sự thanh lọc đặc biệt của ân sủng. Ân
sủng để từ bỏ mình trọn vẹn, nhờ đó có thể muốn Ý muốn Chúa một cách thuần túy.
Khi từ bỏ Thích và uốn được Thích
theo Muốn rồi, thì sự hội nhất đã hoàn hảo và nhân cách vững vàng. Hội nhất tốt
và nhân cách vững, đó là khi Thích và Muốn không còn xa nhau nữa, vì Thích đã
thuận với Muốn để thành đạo đức. Vâng, sự hội nhất chỉ tìm thấy ở những con
người thánh thiện thôi.
Một thánh nhân thực phải thánh tự
mình. Một đạo đức vững không thể là đạo đức được cơ chế bao cấp, môi trường tạo
nên và dư luận kéo đi. Thật ra, để giáo dục hay tu thân, một môi trường tốt tuy
không cần tuyệt đối, nhưng cũng rất cần. Và cũng hữu ích không kém những khuôn
thước và kỷ luật chung. Dầu sao, chúng chỉ là phương thế và điều kiện, còn
nguyên nhân phải là ân sủng của Chúa và ý muốn của kẻ dưỡng tính tu tâm. Ðằng
khác, cùng với đà tiến đức của đương sự, phải giảm dần những sức ép bên ngoài
ấy để có chỗ cho ý chí cá nhân thi thố, nhờ đó con người trưởng thành lên. Kỷ
luật chung khi ấy sẽ thu hẹp vào những nét chính cần yếu, và mỗi thanh thiếu
niên tự soạn lấy cho mình một kỷ luật riêng với sự tham vấn của ai hướng dẫn mình.
TÓM LẠI
Mọi chức năng và sức mạnh bên
trong phải hội nhất để làm nên một con người riêng, con người độc đáo và ổn
định, và đó là nhân cách. Con người không còn nghiêng ngả theo ham muốn và đổi
thay theo hoàn cảnh cũng là con người đạo đức luôn.
Ðể rèn nhân cách, phải biết khí
chất của mình. Do tổ hợp khác nhau của ba yếu tố chính: Cảm (và vô cảm, với
nhiều mức độ), Ðộng (và nghịch với nó là tĩnh hay bất động), Âm hưởng (nổi hay
chìm), người ta phân biệt 8 khí chất chính yếu: sôi nổi, nóng vội, tình cảm,
đam mê, lanh động, lỳ lạnh, quán định và ươn ưởi.
Biết khí chất rồi, tùy mình mạnh
hay yếu ở điểm nào, hãy lo dự phòng những hiểm nguy, chấn chỉnh những thiếu
sót, nhất là khéo léo nương theo để xây dựng mình về hướng thích hợp nhất.
Ðể được thế, nên chọn lý tưởng
thích ứng và dò tìm ơn gọi bằng cách thỉnh ý Chúa trong cầu nguyện, bằng cách
xem xét khả năng, khuynh hướng, hoàn cảnh và tâm tình của ta.
Rèn nhân cách cũng là luyện ý
chí. Ðể luyện ý chí, phải phân nó khỏi thích bằng làm ngược cái mình thích.






18:36
Annhientutai

Posted in:
0 nhận xét:
Đăng nhận xét